II. Đại cương
Giun đầu gai Gnathostoma spp được tìm thấy trong một khối u ở vách dạ dày của một hổ con đã chết tại vườn thú ở London năm 1836 và được Owen đặt tên là Gnathostoma spinigerum.
Năm 1889, ca nhiễm Gnathostoma đầu tiên ở người được phát hiện bởi bác sĩ Deutzer, ông đã bắt được ấu trùng từ một nốt dưới da xung quanh vùng vú một phụ nữ người Thái Lan [1], ấu trùng này được Levinsen đặt tên là Cheiracanthus siamensis, về sau được xác định là G.spinigerum.
Bệnh do ấu trùng giun đầu gai là một bệnh ký sinh trùng truyền từ động vật sang người. Một số loài đã được chứng minh có liên quan đến gây bệnh ở người: G.doloresi, G.spinigerum, G.nipponicum, G.hispidum và gần đây là G.binucleatum [1].
G.spinigerum từ lâu được xem như một loài chính gây bệnh cho người ở khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Bệnh giun đầu gai là một trong những bệnh nhiễm trùng hiếm gặp nhất, người bị nhiễm do tiêu hóa phải ấu trùng giai đoạn 3 của loài giun tròn [1], giống Gnathostoma spp. Thường gặp nhất là G.spinigerum, mặc dù một số loài khác cũng có thể gây bệnh cho người. Ấu trùng có thể được tìm thấy trong rau hoặc thịt nấu chưa chín (cá nước ngọt, gà, ốc, ếch, heo) hoặc nước bị nhiễm. Hiếm khi ấu trùng xuyên qua da của người có phơi nhiễm với nguồn nước hoặc thịt bị nhiễm.
Lớp giun đầu gai thuộc ngành đầu gai Acanthopheles bao gồm khoảng 1500 loài, chia làm 3 phân lớp: Neochinorhychnea, Echinohynchinea, Gigantorhynchinea.
II. Dịch tễ học
1. Tần suất
G.spinigerum được tìm thấy ở một số nước như: Nhật, Australia, Mỹ, Mexico, và nhiều nhất là Thái Lan [1], [2]. Trên thế giới, bệnh do G.spinigerum gây ra là không phổ biến, ngay cả ở các vùng lưu hành bệnh giun sán như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Malaysia, Đài Loan, Thái Lan, Việt Nam và châu Mỹ Latinh (chủ yếu ở Mexico và Ecuador) [1].
G.spinigerum thường được phát hiện ở vùng nhiệt đới. Ấu trùng có thể phát hiện trên nhiều loại động vật khác nhau, chúng sinh sống trong nhiều hệ sinh thái khác nhau. Trong khi chó, mèo và có thể cả heo là các vật chủ chính thì có đến 36 vật chủ trung gian nhiễm tự nhiên thông qua mô tả và xác định theo mô hình vật chủ thực nghiệm.
Phân bố bệnh giun đầu gai Gnathostoma spp trên toàn cầu
(Nguồn: http://www.cdc.gov/parasites/gnathostoma/)
2. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong
Ấu trùng G.spinigerum có thể tồn tại 10-12 năm trong cơ thể cơ thể người [1] do đó, nó góp phần vào một tỷ lệ mắc bệnh đáng kể.
Tỷ lệ tử vong do bệnh này khoảng 8-25%; hoặc có di chứng kéo dài, khoảng 30% có liên quan đến hệ thần kinh [1].
3. Chủng tộc, giới tính và tuổi mắc bệnh
Chưa phát hiện bệnh có liên quan đến chủng tộc, dân tộc, độ tuổi hay giới tính. Một số ca có liên quan đến chế độ ăn uống, nghề nghiệp.
4. Nguồn lây nhiễm
Người bị nhiễm khi ăn phải ấu trùng giai đoạn 3 có trong rau sống hoặc thịt nấu chưa chín từ các vật chủ chính hoặc khi họ uống, làm việc, bơi lội trong nước bị nhiễm ấu trùng hoặc các loài giáp xác bị nhiễm sẵn.
Các trường hợp lây truyền trước sinh có thể xảy ra ở người.
Ở người thì ấu trùng không quay trở lại thành dạ dày và có những trường hợp có thể tồn tại trong cơ thể đến 10-12 năm. Vì lý do này, trứng giun chưa bao giờ hoặc rất hiếm được tìm thấy trong phân của người.
III. Đặc điểm hình thái học và chu kỳ phát triển
Các loài giun đầu gai Gnathostoma spp thường gặp ký sinh ở người.
1. Hình thái học
Giun đầu gai không có hệ tiêu hóa, dinh dưỡng bằng cách thẩm thấu qua bề mặt cơ thể.
Giun trưởng thành có chiều dài 11-54 mm. Giun đực dài 11-25 mm, giun cái dài 25 - 54mm.
Giun đầu gai Gnathostoma spinigerum giai đoạn trưởng thành
Hình ảnh siêu cấu trúc bề mặt Gnathostoma spinigerum
(Nguồn:http://www.Stanford.edu/)
Gnathostoma spp một đầu có hình củ, một cặp môi ở bên bao quanh một cái miệng trên trục thẳng đứng. Đầu được bao phủ bởi những hàng nhú gai bén nhọn nằm ngang. Bên trong, đầu chia thành 4 túi có tuyến dính liền gần với thực quản và chia làm 4 khoang rỗng, mỗi khoang liên tục với một túi ở cổ thông qua khoang trung tâm.
Các con cái khác với con đực là con cái có 2 gai thịt lớn quanh đầu dưới của giun. Phần lưng tròn, ngược lại phần bụng hơi phẳng.
Con đực có 8 nhú gai ở đuôi bao quanh hậu môn. Các gai nhỏ cùn, đóng vai trò quan trọng như lỗ sinh sản mở ra âm đạo khi đưa tinh trùng vào. Cơ quan sinh dục con đực có kích thước 1.1mm X 0.4mm.
Điểm đặc biệt của Gnathostoma spinigerum
Sựphát triển của trứng giun đầu gai theo thời gian (Nguồn:http://www.pn.bmj.com)
Ấu trùng giun đầu gai Gnathostoma spinigerum (Nguồn: http://www.pn.bmj.com)
2. Chu kỳ phát triển
Chu kỳ phát triển của giun đầu gai
Người ăn phải các vật chủ chứa ấu trùng giai đoạn 3, ấu trùng qua dạ dày, ruột tới gan và các bộ phận cơ thể. Ấu trùng giun không phát triển đến giai đoạn trưởng thành, mà chỉ ở giai đoạn ấu trùng. Ấu trùng cũng không trở lại dạ dày nên cũng không tạo thành các u, nhú ở dạ dày. Ấu trùng thường di chuyển khắp các cơ quan, gây ra hội chứng ấu trùng di chuyển ngoài da và nội tạng. Người cũng có thể bị nhiễm do ấu trùng chui qua da.
Bs. Trần Văn Dũng
Tài liệu tham khảo
BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN SỐT RÉT - KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG - TP. HỒ CHÍ MINH
Số 685 Trần Hưng Đạo - Phường 1 - Quận 5 - TP. Hồ Chí Minh | www.impehcm.org.vn
Điện thoại: 84-028-3923.7117 / 3923.9940 / 3923.7422 / 3923.8091 / 3923.9946 - Fax: 84-8-3923.6734
Giấy phép số 125/GP-BC (9/4/2007)